Hồi ký Đời Tôi (L. Trotsky) (Chương II)

Hồi ký Đời Tôi của nhà cách mạng Leon Trotsky đã được nhóm Đệ tứ Cộng sản Việt Nam dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và xuất bản tại Pháp năm 1998 cũng như trên website Tủ Sách Nghiên Cứu. Do nhiều nguyên nhân, hiện tại ấn bản điện tử đã không còn trên mạng.

Nhận thấy tác phẩm cung cấp góc nhìn sâu và từ cá nhân của Trotsky, có thể giúp độc giả hiểu về chủ nghĩa Marx chân chính, hiểu cuộc đấu tranh phức tạp trước, trong và sau cách mạng Nga, Chuông Rè trân trọng đăng tải toàn văn tác phẩm này.

Nguyên tác: ЛЛЕЕВВ ТТРРООЦЦККИИЙЙ:: ММООЯЯ ЖЖИИЗЗННЬЬ II––IIII

Tủ sách Nghiên cứu dịch theo bản tiếng Pháp:

Léon Trotsky: Ma Vie

Nhà xuất bản Gallimard, Paris 1953

Hoàng Nguyễn đối chiếu, sửa chữa và chỉnh lý theo bản tiếng Hung: Lev Trockij: Életem

Nhà xuất bản Kossuth, Budapest 1989

Trình bày bìa: Hoàng Giang In lần thứ nhất tại Hungary, 1998

CHƯƠNG II

NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM – TRƯỜNG HỌC ĐẦU TIÊN

Cách trang trại Ianốpca chừng một dặm, hoặc có thể gần hơn, là trang trại của dòng họ Đembốpxki. Cha tôi thuê một phần đất của họ và hai bên đã có quan hệ làm ăn với nhau trong nhiều năm. Chủ trang trại là Phêôđôxia Antônốpna, một nữ địa chủ già người Ba Lan, một thời làm quản gia. Sau cái chết của ông chồng thứ nhất giàu có, bà lấy Cadimia Antônôvích [Casimir Antonovitch], anh quản lý trang trại kém bà chừng hai mươi tuổi. Nhưng đã từ lâu Phêôđôxia Antônốpna không sống cùng người chồng thứ hai này và anh ta vẫn tiếp tục quản lý trang trại. Cadimia Antônôvích là một người Ba Lan cao lớn, có bộ ria mép dày, vui tính và ồn ào. Ông ta thường đến uống trà với chúng tôi bên chiếc bàn hình bầu dục lớn và kể hai, ba lần những chuyện rỗng tuếc, lặp đi lặp lại một số từ và búng ngón tay đôm đốp.

Cadimia Antônôvích có một bọng ong tuyệt vời, đặt xa các chuồng ngựa, chuồng gia súc vì loài ong không chịu được mùi ngựa. Những chú ong hút nhụy hoa từ những cây ăn quả, cây keo trắng, cây cải dầu, cây lúa mạch đen; tóm lại chúng có chỗ để bay nhảy. Thỉnh thoảng, Cadimia Antônôvích tự tay đem đến cho chúng tôi một tấm ong trong lớp mật vàng trong suốt được ép giữa hai cái đĩa và phủ lên trên bởi một lớp khăn mặt.

Một lần Ivan Vaxiliêvích dẫn tôi đến nhà Cadimia Antônôvích để xin bồ câu giống về nuôi. Cadimia Antônôvích mời trà chúng tôi trong một gian ở góc căn nhà lớn trống trải. Có bơ, pho-mát tươi và mật trên những chiếc đĩa lớn miệng loe mùi hôi hám. Tôi uống trà trong tách và lắng nghe câu chuyện chầm chậm.

–           Mình không quá chậm chân đấy chứ? – tôi hỏi nhỏ Ivan Vaxiliêvích.

–           Khoan, chờ chút nào! – Cadimia Antônôvích đáp. – Phải có thời giờ để lũ bồ câu yên vị dưới mái nhà đã. Chúng nó có bạt ngàn ở đó.

Tôi thấy sốt ruột quá. Cuối cùng, chúng tôi cầm đèn và trèo lên gác xép một nhà kho.

–           A! Giờ thì hãy cẩn thận đấy! – Cadimia Antônôvích nói với tôi.

Gác xép dài và tối tăm bị các xà gỗ cắt ngang dọc. Mùi chuột, bụi bặm, mạng nhện và mùi cứt chim bốc lên. Chúng tôi tắt đèn đi.

–           Chúng ở đây này, bắt đi! – Cadimia Antônôvích nói thì thầm.

Vừa dứt lời, một cái gì không thể tả nổi diễn ra. Trong bóng tối như mực, điệu múa của lũ quỷ địa ngục bắt đầu: tầng gác xép bừng tỉnh xoay vần như một cơn gió lốc. Trong một giây phút, tôi tưởng như cả thế giới sụp đổ và thế là kết thúc tất cả. Tôi chỉ hồi lại dần dần khi nghe những giọng nói căng thẳng: ”Thêm một con nữa, vào đây, vào đây, nhét vào túi này, thế”. Ivan Vaxiliêvích xách túi và trên suốt đường về, tất cả những gì xảy ra ở căn gác xép lại tiếp diễn trên lưng anh.

Chúng tôi dựng một chuồng nuôi bồ câu dưới mái nhà xưởng. Cứ mỗi ngày tôi lại trèo thang hàng chục lần để đem nước, hạt kê, hạt mì và vụn bánh mì cho lũ chim. Một tuần lễ sau, hai quả trứng con xuất hiện trong một tổ. Nhưng chưa kịp vui vì phát hiện mới mẻ ấy, lũ bồ câu đã bắt đầu bay về nơi ở cũ, con nọ nối tiếp con kia. Chúng tôi chỉ còn lại ba đôi, những con đã bị chặt đầu cánh, nhưng một tuần sau khi lông cánh mọc lại chúng cũng lìa bỏ chiếc chuồng bồ câu được trang trí tuyệt vời có cấu trúc theo hệ thống hành lang. Thử nghiệm nuôi bồ câu của chúng tôi kết thúc ở đó.

Gần Êlidavétgơrát, cha tôi thuê đất của bà T-xcaia. Bà là một địa chủ góa chồng, trạc bốn mươi tuổi và rất có tính cách. Một ông cha cố cũng góa bụa luôn luôn quẩn quanh bên bà. Ông ta thích âm nhạc, chơi bài và nhiều thứ khác nữa. Bà T-xcaia cùng ông cha cố góa vợ đến Ianốpca xem xét lại các điều kiện thuê đất. Chúng tôi dành cho họ phòng khách và buồng bên cạnh. Họ được mời ăn món gà rán bơ, rượu anh đào và món bánh varêniki [varéniki] nhân anh đào chua. Sau bữa trưa, tôi ở lại trong phòng và thấy ông cha cố ngồi sát bà T-xcaia và thì thầm vào tai bà một chuyện gì đó, hẳn là rất ngộ nghĩnh. Ông ta lật tà áo thầy tu của mình lên, rút hộp thuốc lá mạ bạc có khắc chữ khỏi túi quần kẻ sọc rồi châm một điếu và nhả ra những vòng khói thật khéo; trong khi bà T-xcaia vắng mặt, ông kể rằng bà ta chỉ ưa xem những mẩu đối thoại trong các tiểu thuyết. Mọi người mỉm cười lịch sự nhưng tránh không phát biểu ý kiến vì biết rằng ông cha cố sẽ kể hết lại cho bà khách và còn chêm thêm phần của mình vào nữa.

Cha tôi đã thuê đất của bà T-xcaia cùng với Cadimia Antônôvích. Hồi đó ông này đã góa vợ và thay đổi trong phút chốc: những sợi bạc trong bộ râu ông biến mất, thay vào đó ông đeo một cổ áo hồ cứng, một cà vạt có ghim và trong túi có ảnh một bà khác. Cũng như tất cả mọi người, đôi lúc Cadimia Antônôvích cũng chế diễu bác Grigôri, nhưng bác lại thổ lộ hết mọi nỗi niềm tâm sự với cậu và còn cho cậu xem một bức ảnh rút ra từ phong bì.

–           Nhìn này – Cadimia nói với bác Grigôri, lúc ấy đương mê mẩn -, tôi nói với cô ấy: ”Thưa bà, đôi

môi của bà được sinh ra để hôn”.

Sau đó, Cadimia Antônôvích cưới người đàn bà ấy nhưng sau lễ thành hôn một năm hay năm rưỡi

gì đó, ông chết bất ngờ: trong trang trại của bà T-xcaia, một con bò tót dùng cặp sừng húc chết ông…

Cách nhà tôi chừng tám dặm là đại điền trang vài ngàn mẫu đất của anh em Ph-der. Nhà của họ giống như một lâu đài, nội thất sang trọng, có phòng khách, phòng chơi bi-a và nhiều thứ khác. Hai anh em Ph-der, Lép [Lev] và Ivan thừa hưởng tất cả từ cha họ, ông Chimôphây [Timofei], và ăn dần dần vào đó. Trang trại được giao cho một người quản lý nhưng rồi ngày càng thất thoát.

–           Chớ có nhầm nhé, nhà Đavít Lêônchêvích [David Leóntievitch] vách đất nhưng ông ấy giàu hơn

tôi đấy. – Đôi khi người anh cả Ph-der nói về cha tôi như thế và khi nghe điều này, ông cụ hài lòng ra mặt.

Một lần, người em Ivan cưỡi ngựa qua Ianốpca cùng hai thợ săn súng chéo vắt vai và một bầy chó săn trắng. Chưa bao giờ vùng Ianốpca thấy cảnh tượng như thế.

–           Chẳng bao lâu họ sẽ bắn sạch đi cả gia sản đó – cha tôi nói vọng theo, vẻ không hài lòng.

Số phận những gia đình địa chủ vùng Khécxôn ấy đã được định đoạt từ trước. Họ trải qua một quá

trình tiến hóa vô cùng nhanh chóng và càng ngày, tiến trình ấy càng theo hướng bại sản, mặc dù ở đây có

khá nhiều loại người: quý tộc lâu đời, viên chức được khen thưởng do cống hiến, rồi cả dân Ba Lan, Đức và Do Thái đã mua được đất từ trước năm 1881. Trong số những sáng lập viên các vương triều tại thảo nguyên này, có nhiều người lỗi lạc trong chủng loại của họ: đó là những kẻ thành đạt và có bản chất tham tàn. Thật ra tôi chẳng biết cụ thể một ai trong số họ, vào đầu thập kỷ tám mươi họ đã qua đời cả. Trong số đó, nhiều người khởi đầu với một đồng xu mẻ nhưng với những nước cờ táo bạo, những công cụ lắm khi phạm pháp, họ chiếm được những miếng khổng lồ. Thế hệ thứ hai đã lớn lên giữa các điều kiện sống quý tộc còn non trẻ: nói tiếng Pháp, chơi bi-a, sống bừa bãi, phóng túng. Khủng hoảng nông nghiệp những năm tám mươi do sự cạnh tranh bên kia bờ đại dương đã giáng một đòn không thương tiếc vào đám người này. Họ rụng như lũ ruồi mùa thu. Thế hệ thứ ba cho ra đời rất nhiều kẻ vô lại, vô dụng, mất cân bằng và sớm bại liệt.

Gia đình Ghéctôpanốp là kết quả thuần túy nhất của giới quý tộc suy đồi. Một làng lớn và cả thị trấn mang tên họ: Ghéctôpanốpxki [Gertopanovsky]. Ngày xưa cả vùng này thuộc sở hữu của gia đình họ. Đến giờ ông già của nhà này vẫn còn bốn trăm mẫu đất nhưng đều đã bị cầm cố một vài lượt. Cha tôi thuê mảnh đất ấy và tiền thuê được chuyển về ngân hàng. Chimôphây Ixaêvích [Timofei Issaévitch] sống bằng nghề viết thuê đơn từ, kiến nghị và thư từ cho nông dân. Khi đến chơi nhà chúng tôi, ông ta thủ thuốc lá và đường trong ống tay áo. Vợ ông cũng làm như thế. Sùi bọt mép, bà ta kể về thời niên thiếu, về những chị nông nô, những cây đàn dương cầm, hàng tơ lụa và đồ nước hoa. Hai đứa con trai của họ hầu như mù chữ. Thằng em Víchto học nghề trong xưởng chúng tôi.

Cách Ianốpca năm, sáu dặm có một gia đình địa chủ Do Thái: dòng họ M-xki. Đây là một gia đình lố lăng, loạn óc. Ông già Môixây Kharitônôvích chừng sáu mươi tuổi, nổi bật với nền giáo dục quý phái: ông nói thạo tiếng Pháp, biết chơi dương cầm và hiểu chút ít về văn học. Tay trái ông kém, nhưng bàn tay phải, theo ông, có thể dùng để biểu diễn đàn. Ông bổ những móng tay thiếu chăm sóc lên bàn phím chiếc cla-vơ-xin cũ như thể nó là một chiếc sênh. Bắt đầu với một bản Pôlônedơ [Polonaise] của Ôghinxki [Oguinsky], ông đảo sang một khúc Rápxôđi [Rapsodie] của Lítxtơ [Liszt] lúc nào không biết, rồi lại tức khắc chuyển qua Kinh cầu nữ đồng trinh. Khi nói chuyện ông cũng hay nhảy cóc như thế. Đột nhiên ông ngừng đàn, lại gần chiếc gương và nếu không có ai quanh đó, ông lấy điếu thuốc đang cháy dụi vào bộ râu để sửa sang chúng. Ông hút liên miên đến ngạt thở và dường như có vẻ chán chường. Đã mười lăm năm  nay ông không nói một lời với vợ, một bà già nặng nề.

Đavít, cậu con trai ba mươi lăm tuổi của ông luôn xuất hiện với một mảnh vải trắng băng trên mặt và con mắt đỏ hoe, nhấp nháy trên mảnh băng. Đã một lần suýt nữa anh ta tự tử. Khi đang ở trong quân ngũ, anh ta trót nói một câu tục tằn gì đó với viên sĩ quan. Ông này đánh anh, Đavít giáng trả một cái tát rồi chạy về trại lính và toan dùng súng tự sát. Viên đạn xuyên qua má, vì thế anh phải đeo vĩnh viễn cái băng trắng. Lẽ ra anh ta đã bị trừng phạt nặng nề. Nhưng vào thời đó, ông già Kharitôn [Khariton], người thành lập ra dòng họ này vẫn còn sống. Đó là một người giàu có, chuyên chế, tham bạo và ít học. Ông làm náo động cả tỉnh, cuối cùng cháu ông được coi là kẻ không làm chủ bản thân. Cũng có thể điều này không xa sự thực là bao. Từ dạo đó, Đavít sống với cái má bị thủng và có dấu hiệu bị điên.

Sự sa sút của dòng họ M-xki vẫn tiếp diễn vào thời thơ ấu của tôi. Trong những năm đầu đời, Môixây Kharitônôvích còn đến thăm gia đình tôi trên một cỗ xe bốn bánh với những chú ngựa tuyệt đẹp. Còn rất bé (khoảng bốn năm tuổi), tôi đến nhà họ M-xki với anh cả tôi. Họ có một vườn lớn, luôn được chăm sóc cẩn thận, cả lũ công cũng dạo chơi ở đó. Lần đầu tiên tôi được thấy những con vật kỳ lạ ấy, một cái vương miện nhỏ trên cái đầu ngộ nghĩnh, những mảnh gương bé nhỏ, kỳ diệu trên cái đuôi huy hoàng  và những móng đeo ở chân.

Rồi những chú công biến mất và cùng với chúng, nhiều thứ khác nữa.

Hàng rào quanh vườn đổ sụp. Lũ gia súc dẫm nát bồn hoa và phá tan những cây ăn quả. Môixây Kharitônôvích đến Ianốpca trên một chiếc xe thùng ngựa kéo như loại xe của nông dân. Con cái ông ta tìm cách khôi phục trang trại, không phải theo kiểu cách quý tộc mà theo kiểu nông dân.

–           Chúng tôi sẽ mua một con nghẽo, cứ mỗi sáng chúng tôi cũng ra đồng như Brônsten vẫn làm – họ

nói.

–           Họ không làm nổi đâu – cha tôi nói.

Đavít được cử đi chợ phiên Êlidavétgơrát để mua ”con nghẽo”. Anh dạo khắp chợ, xem ngựa với

con mắt một lính kỵ binh và cuối cùng cũng chọn được ba con. Mãi đến tối anh mới trở về làng. Nhà đầy khách khứa, họ mặc những bộ quần áo mỏng mùa hè. Abram xách đèn xuống bậc thềm để xem ngựa, theo sau anh là các bà, lũ học sinh và thiếu niên. Ngay lập tức, Đavít cảm thấy như cá gặp nước, anh ta liền bắt đầu ca tụng lũ ngựa, nhất là một con theo ý anh ”giống hệt một tiểu thư”.

Abram gãi gãi chòm râu và nhắc đi nhắc lại:

–           Ừ…, toàn ngựa tốt cả…

Buổi tối kết thúc bằng bữa tiệc và cuộc chơi bời ngoài vườn. Đavít tháo một chiếc giày của một bà

khách dễ thương, rót đầy bia vào đó và đưa lên miệng.

–           Anh định uống thật đấy à? – bà khách kêu lên và đỏ mặt vì hoảng sợ hoặc kinh ngạc.

–           Đến bắn súng vào người mình tôi còn chẳng sợ nữa là… – người hùng đáp lại và tợp một hơi bia

từ chiếc giày.

–           Cậu đừng tự khoe chiến tích của mình thì hơn – mẹ anh đột nhiên lên tiếng, thường thường bà vẫn hay yên lặng. Đó là một phụ nữ cao lớn, người đã nhão. Bà phải gánh vác tất cả công việc của trang trại.

–           Đây là lúa mì mùa thu à? – Abram M-xki hỏi cha tôi để tỏ ra là người thạo việc.

–           Chà, tất nhiên chẳng phải mì mùa xuân rồi.

–           Nhicôpônca [Nikopolka] phải không?

–           Tôi đã nói với ông là mì thu mà lỵ.

–           Tôi biết là mì thu, nhưng giống nào kia chứ? Nhicôpônca hay Ghiếcca [Ghirka]?

–           Tôi chưa bao giờ nghe có giống Nhicôpônca vào mùa thu. Có thể ai đấy có, nhưng tôi thì không.

Tôi chỉ có giống Xanđômiếcca [Sandomirka] thôi.

Cố gắng của Abram không đạt được kết quả gì. Một năm sau mảnh đất ấy lại phải để cho cha tôi

thuê.

Những người Đức nhập cư làm thành một nhóm riêng biệt. Trong số họ có những người giàu thực

sự. Họ dẻo dai hơn những người khác, các phong tục gia đình của họ cũng cứng rắn hơn. Con trai rất ít khi được gửi ra thành phố, con gái thường làm việc đồng áng. Nhưng nhà cửa của họ được làm bằng gạch, lợp tôn sơn màu xanh lá cây hoặc màu đỏ; họ có những giống ngựa nòi, yên cương được chăm sóc kỹ càng; những chiếc xe có lò xo của họ cũng thường được gọi là xe thùng kiểu Đức.

Sống gần chúng tôi nhất là Ivan Ivanôvích Đôrnơ [Ivan Ivanovitch Dorn], một người đàn ông to béo nhưng nhanh nhẹn, chân trần đi giày cao cổ, má rám nắng, râu ria lởm chởm và mái tóc đã bạc. Ông ta lúc nào cũng đi một chiếc xe thùng đẹp, sơn lòe loẹt, được kéo bởi những con ngựa ô giống, đi đến đâu đất đá tung tóe đến đó. Những người như Đôrnơ khá đông. Nổi bật trong số họ là Phandơ-Phen [Folz-Fein], ông vua cừu, Kannichtverstan của thảo nguyên.

Những đàn cừu vô tận đi qua.

–           Lũ cừu này của ai?- Của Phandơ-Phen.

Những người nông dân đánh xe đi qua, họ chở cỏ khô, rơm trấu.

–           Chở cho ai vậy? – Cho Phandơ-Phen.

Một chiếc xe sơn trang trí chở đầy những tấm da thú chồng chất thành hình kim tự tháp do ba chú ngựa phi nước kiệu chạy vụt qua. Viên quản lý của Phandơ-Phen ngồi ở chân của kim tự tháp đó. Hoặc đột nhiên một đàn lạc đà chạy hùng hục với vẻ bề ngoài đáng sợ. Phandơ-Phen là người duy nhất nuôi lạc đà. Ông ta có lũ ngựa đực giống châu Mỹ và bò tót Thụy Sĩ.

Tổ tiên của dòng họ này lúc đó mới chỉ là Phandơ, chưa có Phen, là Schafmeister của quận công Ônđenbua [Oldenbourg], ông này nhận được của quốc khố một khoản tiền lớn để nuôi cừu Mêrinốt. Ông quận công nợ chừng một triệu rúp và không hoàn thành nhiệm vụ của mình. Phandơ mua lại cơ ngơi và cai quản nó không theo cách của một quận công mà như một Schafmeister. Các đàn cừu của ông ta được nhân lên nhanh chóng, đồng thời các bãi cỏ trang trại cũng được mở rộng. Con gái ông ta lấy Phen, một người chăn nuôi cừu. Như thế là hai triều đại nuôi cừu hợp lại với nhau. Cái tên Phandơ-Phen vang lên như tiếng ầm ầm của hàng vạn con cừu, tiếng be be, tiếng kêu và tiếng còi của những kẻ chăn cừu trên thảo nguyên với gậy đeo trên lưng, tiếng sủa của vô số chó chăn cừu. Ngay cả thảo nguyên cũng thở ra cái tên ấy trong những ngày tột đỉnh nóng bỏng hay băng giá.

Tôi đã để lại phía sau năm năm đầu tiên của đời mình. Kinh nghiệm của tôi được nhân lên. Cuộc sống vô cùng sáng tạo và chăm chỉ thực hiện những phối hợp tại một vùng nông thôn nhỏ, hẻo lánh cũng như trên vũ đài thế giới. Các sự kiện cứ lần lượt tràn đến với tôi, việc này nối tiếp việc kia.

Mọi người đưa từ cánh đồng về một nữ công nhân bị rắn lục cắn, cô gái khóc lóc than thở. Người ta thắt chặt phần chân bị sưng tấy phía trên đầu gối của cô và dầm vào một cái thùng nhỏ đựng sữa chua. Rồi cô được đưa đến bệnh viện ở Bôbrinhét. Sau khi trở lại làm việc, cô khập khiễng trên cái chân bị thương trong chiếc tất bẩn và rách rưới và các công nhân gọi cô là ”tiểu thư”.

Một con lợn giống đợp vào trán, vào vai, vào tay người cho nó ăn. Đó là một chú lợn khổng lồ được mua về để tái tạo đàn lợn. Anh chàng bị cắn hoảng sợ khóc sụt sịt như một đứa trẻ. Người ta cũng đưa anh ta đi bệnh viện.

Hai công nhân trẻ đứng ném dĩa vào người nhau trên những xe chở đầy lúa. Tôi nhìn chằm chằm

vào cảnh tượng đó. Một cái dĩa đâm vào hông một trong hai người, anh ta ngã lăn xuống và gào lên.

Tất cả những chuyện này xảy ra trong vòng một mùa hè. Mà mùa hè năm nào cũng đầy những sự

kiện như thế.

Trong một đêm mùa thu, toàn bộ mái gỗ nhà cối xay bị hất xuống suối. Cọc nhà đã mọt từ lâu và dưới sức gió bão, các vách gỗ rung chuyển như những cánh buồm. Chiếc máy hơi nước, các bánh xe vận hành và bộ phận nghiền phơi trần ra trong đống đổ nát. Giữa những tấm ván, lũ chuột khổng lồ nhảy đại ra giẫm đè cả lên nhau.

Có phần lén lút, tôi theo người xách nước ra đồng săn chuột. Phải rót nước cẩn thận vào hang chuột, không nhanh quá nhưng cũng không chậm quá. Chúng tôi cầm gậy trong tay và chờ đợi cho đến lúc một mõm chuột nhỏ xuất hiện ở miệng lỗ với bộ lông ẩm ướt dính bẹp xuống đất. Một con chuột đồng già có thể cầm cự được lâu, nó căng đuôi đút nút cái lỗ, nhưng xô nước thứ hai khiến nó phải đầu hàng và lao vào cái chết. Phải chặt chân cơn chuột chết và căng lên một sợi dây: Hội đồng Quản trị địa phương trả một cô-pếch cho mỗi con chuột bị giết. Trước đó chỉ cần đưa ra cái đuôi là đủ, nhưng nhiều tay tinh quái có thể làm hàng tá đuôi từ lớp da chuột nên Hội đồng Quản trị quyết định cứ phải trình cái chân. Tôi trở về nhà, người ướt đầm đìa và lấm bùn đến tận cổ. Gia đình không tán thành những chuyến đi như thế, người ta thích hơn nếu tôi ngồi trên đi-văng và vẽ chàng Ơđíp [Oedipe] mù bên nàng Antigôn [Antigone].

Một lần tôi đi về nhà với mẹ tôi bằng xe trượt tuyết từ thành phố gần nhất là Bôbrinhét. Bị tuyết làm mờ mắt, chiếc xe đu đưa trong cuộc hành trình khiến tôi ngủ gà ngủ gật. Đến một khúc ngoặt xe đổ kềnh và tôi ngã sấp mặt xuống đất, bị vùi dưới cái chăn và cỏ khô. Tôi nghe tiếng gọi lo lắng của mẹ nhưng không lên tiếng trả lời được. Người đánh xe mới đến làm việc ở gia đình tôi là một gã trẻ trung, cao ráo và tóc đỏ hung, anh ta nâng cái chăn lên và phát hiện ra chỗ ”trú ẩn” của tôi. Chúng tôi lại yên vị trên chiếc xe trượt và tiếp tục đi. Nhưng khi ấy tôi bắt đầu phàn nàn về chuyện mình nổi gai ốc vì lạnh. Gã đánh xe trẻ có bộ râu hung đỏ quay lại hỏi, để lộ ra hàm răng trắng, khỏe:

–           Nổi gai ốc à?

Tôi nhìn miệng anh ta và nói:

–           Vâng, chú biết đấy, cứ như là có kiến bò… Anh đánh xe bật cười:

–           Không sao cả – anh nói -, chúng ta sắp về đến nhà rồi! Và anh ta quất con ngựa màu cà phê sữa.

Đêm hôm sau, cũng người đánh xe ấy biến mất cùng chú ngựa. Trang trại được báo động. Một đội kỵ binh chuẩn bị săn lùng, anh cả tôi dẫn đầu. Anh đóng yên cương cho con ngựa Mútxơ [Mutz] và thề sẽ trừng trị nghiêm khắc tên ăn trộm kia.

–           Trước hết hãy tóm cổ nó đã – cha tôi nói giọng rầu rĩ.

Sau hai ngày đêm, đoàn ”kỵ sĩ” trở về. Anh tôi phàn nàn sương mù đã ngăn anh đuổi kịp thằng trộm ngựa. Thế ra anh chàng đẹp trai vui tính ấy lại là tên ăn trộm ngựa? Hắn có hàm răng trắng đẹp thế kia mà?

Bị cơn sốt hành hạ, tôi vật vã. Tay, chân và đầu khiến tôi vướng víu, chúng sưng lên như chạm vào tường, vào trần nhà; tôi không thoát khỏi nỗi đau đớn vì chúng đến từ bên trong. Họng tôi đau và người tôi nóng bỏng. Mẹ rồi cha tôi nhìn vào họng, họ liếc nhau lo lắng và quyết định đặt viên đá xanh lên chỗ đau.

–           Tôi sợ nó bị bạch hầu – mẹ tôi nói.

–           Nếu Liôva bị bạch hầu thì nó đã ”trương lên” từ lâu rồi – Ivan Vaxiliêvích đáp.

Tôi đoán mơ hồ ”trương lên” tức là chết như em gái Rôdôtrơca [Rosotchka] của tôi. Nhưng tôi không tin điều đó có thể xảy ra với mình và bình thản nghe cuộc nói chuyện. Cuối cùng người ta quyết định đưa tôi đi Bôbrinhét. Mẹ tôi không hay theo những phong tục nhưng bà cũng không dám ra thành phố vào ngày thứ bảy. Ivan Vaxiliêvích đi cùng tôi ra thành phố.

Chúng tôi đến nhà chị Tachiana bé, trước là đầy tớ của chúng tôi và bây giờ lấy chồng ở Bôbrinhét. Họ không có con, như thế không sợ bị lây lan. Bác sĩ Satunốpxki [Chatounovsky] khám họng tôi, đo nhiệt độ và theo thói quen của ông, ông tuyên bố chưa thể biết là bệnh gì. Chị chủ nhà Tanhia cho tôi một chai bia, bên trong có cả một nhà thờ bằng que và những tấm ván nhỏ. Tay và chân tôi đã hết khó chịu. Tôi trở nên khỏe hơn. Việc này xảy ra khi nào? Không lâu trước ”công nguyên”.

Chuyện ấy xảy ra như thế này. Chú Abram, một ông già ích kỷ, có thể đi qua trước mặt lũ trẻ con

hàng tuần mà không nói với chúng một lời, một hôm trong lúc vui vẻ đã gọi tôi vào hỏi:

–  Cháu nói ngay cho chú biết, thành thực vào; chúng ta đang ở năm nào? Không biết à? Năm 1885!

Nhắc lại đi và nhớ lấy, sau này chú sẽ hỏi lại. Như thế là sao? Tôi không hiểu được

–  Đúng năm nay là năm 1885 – bà chị họ Ônga [Olga] dịu dàng của tôi nói -, và năm sau sẽ là 1886.

Tôi không tin vào điều đó. Nếu giả sử thời gian có một cái tên thì 1885 phải tồn tại vĩnh viễn, tức là rất, rất lâu, cũng như hòn đá lớn dùng làm bậc thềm ở cửa ra vào, như nhà cối xay và cuối cùng, như bản thân tôi chẳng hạn. Em gái chị Ônga, Bêchia [Betia] chẳng biết nên nghe ai. Cả ba chúng tôi đều cảm thấy băn khoăn khi bước chân vào một lĩnh vực mới mẻ, dường như ta bất thình lình mở toang cánh cửa một căn phòng tranh tối tranh sáng, không có chút đồ đạc nào và trong đó tiếng vọng lại rất dài. Cuối cùng tôi phải chịu đầu hàng. Mọi người đều bảo chị Ônga có lý. Như vậy năm đầu tiên có đánh số mà tôi ý thức được là 1885. Nó đánh dấu sự kết thúc một khoảng thời gian không hình thù, giai đoạn tiền sử của đời tôi, của một thế giới hỗn mang: niên đại đời tôi được tính từ điểm thắt nút đó. Lúc ấy tôi lên sáu. Đối với nước Nga, đó là một năm mất mùa, khủng hoảng và diễn ra sự náo động lớn đầu tiên trong giới thợ thuyền. Nhưng với tôi, tôi chỉ ngạc nhên khi được biết mỗi năm lại có một cái tên không thể nắm bắt nổi. Tôi băn khoăn cố tìm ra mối quan hệ huyền bí giữa thời gian và những con số. Rồi năm tháng cứ nối tiếp nhau, ban đầu chậm chạp sau nhanh dần lên. Nhưng trong một thời gian dài, 1885 vẫn nổi bật lên như một năm ”chị cả”, năm gốc. Nó đã mở đầu ”kỷ nguyên” của tôi.

Một lần sự cố như sau xảy ra: trước bậc thềm, tôi ngồi lên thùng xe, nắm dây cương và đợi cha tôi. Lũ ngựa non liền cuốn tôi đi vượt quá nhà, vựa lúa, vườn rau, chúng ra khỏi đường, chạy xuyên cánh đồng đi về phía trang trại của Đembốpxki. Sau lưng tôi nhiều tiếng kêu vọng tới. Trước mặt chúng tôi là một cái hào. Lũ ngựa chạy như điên. Chỉ khi đến ngay trước cái hào chúng mới bất thình lình quay ngang làm cho xe gần đổ và dừng lại. Người đánh xe chạy sau chúng tôi, sau anh là hai ba người công nhân, xa hơn nữa có cha tôi và cuối cùng là mẹ tôi đang kêu gào và chị tôi vò tay vẻ thất vọng. Khi tôi chạy lại chỗ mẹ tôi, bà vẫn còn kêu gào. Tôi không giấu được rằng cha tôi đã cho tôi hai cái bạt tai và ông thì nhợt nhạt như người sắp chết. Tôi cũng không mếch lòng vì sự việc đã xảy ra thật lạ lùng.

Có lẽ cũng vào năm đó tôi cùng cha đi Êlidavétgơrát. Chúng tôi xuất hành từ rạng sáng và không vội vã. Ở Bôbrinhét người ta cho ngựa ăn; chiều tối chúng tôi đến Vơsivaia [Vchivaia], theo phép lịch sự chúng tôi gọi chệch là Sơvivaia [Chvivaia]; chúng tôi đợi ở đó đến rạng đông bởi vùng ngoại vi thành phố luôn có bọn cướp hoành hành.

Không một thủ đô nào trên thế giới – kể cả Pari lẫn Niu Oóc – lại gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ như Êlidavétgơrát, thành phố với những vỉa hè, những mái nhà màu xanh lá cây, những ban công, những cửa hiệu, những viên cảnh sát và những khối cầu đỏ treo trên các sợi dây mỏng tại cửa ra vào các quầy hàng. Trong vài tiếng đồng hồ, tôi mở to mắt ngắm nhìn trực diện bộ mặt của nền văn minh.

Sau ”công nguyên” một năm, tôi bắt đầu đi học. Một buổi sáng sau khi đã ngủ kỹ và tắm rửa qua loa (ở Ianốpca bao giờ người ta cũng tắm rửa vội vã), thưởng thức một ngày mới – trước hết là trà pha sữa và bánh mì bơ – tôi bước vào phòng ăn. Mẹ tôi ngồi trong đó với một người lạ mặt, thân hình mảnh khảnh, nụ cười nhợt nhạt và có vẻ khúm núm. Cả mẹ tôi lẫn người lạ mặt đều nhìn tôi khiến tôi thấy rõ họ đang nói chuyện về mình. Mẹ tôi gọi tôi:

– Liôva, chào thầy đi con. Đây là thầy giáo của con.

Tôi nhìn thầy vẻ lo lắng nhưng không phải là không có chút tò mò. Thầy chào tôi với vẻ khả ái mà các thầy đều có trước đứa học sinh tương lai khi có sự hiện diện của bố mẹ nó.

Trước mặt tôi, mẹ chuyển câu chuyện sang phần công xá: với chừng ấy rúp và chừng ấy pút bột mì, thày sẽ nhận dạy tôi môn tiếng Nga, số học và Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái cổ trong lớp học của  thầy nơi quần cư. Khối lượng các kiến thức khoa học chỉ được xác định một cách khá mơ hồ vì mẹ tôi cũng chẳng biết được bao nhiêu về chúng. Trong chén trà sữa tôi đã cảm thấy mùi vị của sự biến đổi sắp xảy ra trong đời.

Chủ nhật sau, cha tôi dẫn tôi đến khu quần cư và cho tôi trọ tại nhà dì Rakhen [Rakhel]. Trên chuyến xe ấy, chúng tôi cũng chở đến cho dì bột mì và đại mạch, vừng kê và mọi thứ thực phẩm khác.

Grômôcơlây và Ianốpca cách nhau bốn dặm. Khu quần cư nằm hai bên sườn một thung lũng. Những người Do Thái ở một bên, còn người Đức ở bên kia. Hai bộ phận này rất khác biệt nhau. Trong khu người Đức, nhà cửa được chăm sóc tỉ mẩn, mái ngói hoặc mái lợp lau sậy; họ có những chú ngựa to khỏe, những chị bò cái lông láng bóng. Bên phía người Do Thái là những nhà gỗ nhỏ bé, đổ nát, mái sứt mẻ và đàn gia súc khốn khổ.

Có vẻ kỳ lạ là ngôi trường đầu tiên để lại cho tôi quá ít kỷ niệm. Tấm bảng đá đen, trên đó tôi viết những chữ cái đầu tiên của tiếng Nga; ngón tay trỏ gầy gò của thầy giáo tỳ xuống quản bút, buổi đọc đồng thanh Kinh Thánh; một thằng bé bị phạt vì tội ăn cắp – toàn những mẩu vụn mơ hồ, những vết mờ nhạt, không hình ảnh nào nổi bật trong số chúng. Có lẽ một ngoại lệ là hình ảnh vợ thầy giáo; một người đàn bà cao lớn, béo tốt, thỉnh thoảng lại can thiệp vào đời sống nhà trường một cách bất ngờ. Một hôm ngay trong giờ học, bà đến phàn nàn với chồng rằng thứ bột mới mua có mùi hôi; trong khi ông thầy giáo chìa cái mũi nhọn vào bàn tay chứa bột của bà, bà hất tất cả chỗ bột đó vào mặt ông và cho đó là trò đùa. Lũ con trai, con gái cười vang. Một mình thầy giáo đứng tiu nghỉu. Tôi thấy thương ông thầy đứng giữa lớp, mặt đầy bột.

Tôi sống ở nhà dì Rakhen tốt bụng nhưng không chú ý mấy đến dì. Chú Abram ngự trị tại căn nhà chính cùng cổng ra vào. Ông hoàn toàn không để ý đến các cháu trai, cháu gái. Tuy nhiên, có khi ông gọi tôi vào và thưởng cho một cái xương có cả tủy rồi nói:

–  Cái xương này mười rúp chú cũng chẳng bán.

Ngôi nhà của chú gần như đầu khu quần cư. Phía đối diện là nhà của một người Do Thái cao, gầy và đen, bị coi là một tên trộm ngựa và bậc thầy của mọi việc mờ ám khác. Ông này có một đứa con gái và cô ta cũng bị nói xấu đủ điều. Cách nhà ấy không xa là nhà một người Do Thái trẻ, có râu cằm màu hung vàng rực. Anh làm nghề máy mũ lưỡi trai. Vợ anh ta có lần đi tìm gặp ông thanh tra chính phủ khi ông này đi kinh lý và đến nhà chú Abram. Chị phàn nàn về việc con gái tên trộm ngựa đã quyến rũ chồng chị. Ông thanh tra có vẻ không giúp được chị mấy. Một hôm khi đi học về, tôi thấy một đám đông la hò, khạc nhổ, lôi kéo trên đường phố một cô gái trẻ, đó là con gái tên trộm ngựa. Cái cảnh như trong Kinh Thánh ấy mãi mãi đọng lại trong tâm trí tôi. Vài năm sau, chú Abram lại lấy chính người phụ nữ ấy làm vợ. Hồi đó theo lời kể của những người trong chung cư, cha cô ta đã bị đày đi Xibêri như một phần tử bất hảo.

Masa [Macha], chị vú nuôi xưa kia của tôi hiện là người hầu gái ở nhà chú Abram. Tôi hay chạy đến tìm chị ở nhà bếp. Đối với tôi, chị là hiện thân của những mối quan hệ với Ianốpca. Nhưng chị còn những người khách khác, đôi khi họ rất nôn nóng, lúc ấy họ nhẹ nhàng đẩy tôi ra. Vào một buổi sáng đẹp trời, cùng với tất cả bọn trẻ con ở trong nhà, tôi được biết Masa đã sinh ra một đứa bé. Với vẻ hồi hộp đầy thích thú, chúng tôi thì thầm về chuyện đó trong các góc nhà. Vài ngày sau mẹ tôi từ Ianốpca đến và bà xuống bếp thăm Masa cùng đứa bé. Tôi cũng lon ton theo sau mẹ. Masa đứng trong phòng, chùm một chiếc khăn lên mắt và một đứa bé nhỏ nhoi nằm nghiêng trên chiếc đi-văng rộng. Mẹ tôi nhìn Masa rồi đứa bé. Bà im lặng và lắc cái đầu, vẻ chê trách. Masa lặng lẽ nhìn chăm chăm xuống sàn rồi ngước lên ngắm đứa bé và nói:

– Bà thấy không, nó gối đầu lên cánh tay nhỏ như là người lớn ấy.

– Thế chị không tiếc là nó bỏ đi rồi à? – mẹ tôi hỏi.

– Không, anh ấy quá cao sang đối với con – Masa trả lời, vẻ không thật lòng.

– Nói dối! Chị còn thương nó… – mẹ tôi hòa giải đáp lại.

Một tuần sau đứa trẻ chết trong những hoàn cảnh cũng kỳ bí như khi nó ra đời.

Tôi thường đi từ trường về làng và hầu như tất cả những lần ấy, tôi ở lại chơi một tuần hoặc hơn. Tôi không thân với một người bạn cùng học nào vì không tôi biết nói tiếng Do Thái kiểu Đông Âu. Việc học hành chỉ kéo dài vài tháng, hẳn vì thế mà tôi ít có kỷ niệm về trường. Tuy nhiên thầy Suphe [Schufer] ở Grômôcơlây đã dạy tôi biết đọc và viết, tôi sử dụng lợi ích của hai môn này trong suốt cuộc đời về sau. Vì thế tôi nhớ đến người thầy đầu tiên với một lòng biết ơn.

Tôi bắt đầu đọc sách in. Tôi sao chép những bài thơ, bản thân tôi cũng làm thơ. Sau này tôi và người em họ Xênhia Gi-xki định ra một tạp chí. Nhưng con đường mới này đầy chông gai. Mới chỉ biết sơ qua về nghệ thuật viết lách, nó đã trở thành một sự cám dỗ nguy hiểm đối với tôi. Một lần khi còn lại một mình trong phòng ăn, tôi viết bằng chữ in những từ đặc biệt mà tôi đã nghe thấy trong nhà xưởng và nhà bếp, nhưng không được nói trong gia đình. Tôi biết làm như thế là không đúng nhưng những từ ấy lại quyến rũ tôi vì chúng bị cấm đoán. Tôi quyết định nhét mảnh giấy tai hại ấy vào một cái hộp diêm và tôi sẽ chôn sâu sau vựa lúa. Còn lâu mới hoàn thành được tác phẩm khi chị tôi bước vào phòng ăn và tò mò muốn xem tôi làm gì. Tôi giật tờ giấy khỏi bàn và nắm chặt. Mẹ tôi cũng bước vào ngay sau chị tôi. Họ đòi xem tờ giấy tôi viết. Xấu hổ quá tôi ném nó sau lưng chiếc đi-văng. Chị tôi muốn lấy nó ra nhưng tôi gào lên như điên: ”Để em, để em tìm!” Tôi trườn xuống dưới đi-văng và xé tờ giấy ra từng mảnh nhỏ. Sự thất vọng và nước mắt của tôi thật vô bờ.

Vào lễ Giáng sinh, chắc chắn là năm 1886 vì khi đó tôi đã biết viết, trong giờ uống trà buổi tối, một đám người hóa trang tràn vào phòng ăn. Mọi việc bất ngờ đến nỗi tôi kinh hoàng ngã sấp xuống chiếc ghế dài tôi đang ngồi. Mọi người trấn an tôi và tôi thích thú lắng nghe câu chuyện về ông vua Míchsa [Mikcha]. Lần đầu tiên, một thế giới sân khấu kỳ ảo được mở ra trước mắt tôi. Tôi rất đỗi ngạc nhên khi biết người thủ vai chính là anh thợ Prôkhốp [Prokhov] của chúng tôi, một người lính mới giải ngũ.

Ngày hôm sau, tôi cầm giấy và bút chì lẻn vào buồng người ở sau khi họ vừa ăn xong bữa trưa và tôi cầu khẩn ”ông vua” Míchsa đọc lại cho tôi chép các đoạn độc thoại. Prôkhốp từ chối nhưng tôi bám vào người anh, tôi đòi, tôi xin và không cho anh một lối thoát nào. Cuối cùng chúng tôi ngồi bên cửa sổ và tựa vào thành cửa nham nhở, tôi bắt đầu ghi đoạn văn có vần của ”vua” Míchsa. Chưa đầy năm phút, cha tôi nhìn ra cửa thấy cảnh tượng ấy, ông nghiêm khắc nói với tôi:

– Liôva, về phòng ngay, con!

Tôi khóc mãi đến tối, không ai dỗ được.

Tôi làm thơ, những dòng thơ thảm hại, có thể là chứa đựng sự say mê sớm phát triển đối với văn học, nhưng chắc chắn không hứa hẹn một tương lai thi sĩ. Chị tôi biết những bài thơ của tôi, mẹ tôi biết qua chị rồi cha tôi biết qua mẹ. Người ta bắt tôi đọc thơ trước mặt khách khứa. Tôi bị làm tình làm tội đến là khổ sở. Tôi từ chối. Mọi người tìm cách thuyết phục tôi, thoạt đầu dỗ dành rồi sau đó có phần gay gắt, cuối cùng hăm dọa. Tôi cũng hay chạy trốn. Nhưng người lớn biết cách duy trì những dự định của họ. Tim đập loạn xạ, nước mắt lưng tròng, tôi đọc thơ, giữa chừng cảm thấy xấu hổ vì những câu vay mượn hoặc lạc vần.

Nhưng dầu sao đi nữa, tôi cũng đã nếm vào trái cây tri thức. Giờ này qua giờ khác, cuộc sống mở rộng trước mắt tôi. Trên chiếc đi-văng thủng ở phòng ăn, tôi đã bị những thế giới khác lôi cuốn. Việc đọc sách mở ra một giai đoạn mới trong đời tôi.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s